Đạo diễn: Vương Thừa Lâm
Diễn viên: Bào Quốc An, Đường
Quốc Cường, Lục Thụ Minh, Lý Tĩnh Phi
Thể loại: Phim Võ Thuật, Phim Trung Quốc, Phim Chiến Tranh, Phim Cổ Trang
Thời lượng: 84 Tập
Quốc gia: Trung Quốc
Năm phát hành: 1996
Nội dung phim Tam Quốc Diễn Nghĩa:
Tam quốc diễn nghĩa (Hoa giản thể: 三国演义;
Hoa phồn thể: 三國演義, Pinyin: sān guó yǎn yì),
còn có tên khác là Tam quốc, Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa[1], là một tiểu
thuyết lịch sử Trung Quốc được La Quán Trung viết vào thế kỷ 14 kể về thời kỳ
hỗn loạn Tam Quốc (220-280). Tiểu thuyết này được xem là một trong bốn tác phẩm
cổ điển hay nhất của văn học Trung Quốc.
Theo trí tưởng tượng của tác giả truyện Trọng Tương vấn
Hán[2] thì Hán Cao Tổ đã đầu thai thành hoàng đế cuối cùng nhà Hán là Hán Hiến
Đế, và ba vị tướng được luân kiếp thành vua ba nước khác nhau: Hàn Tín hoá
thành Tào Tháo; Bành Việt hoá thành Lưu Bị; và Anh Bố thành Tôn Quyền. Lần này
hoàng đế nhà Hán phải chịu sự trừng phạt qua bàn tay Tào Tháo. Bộ Tam quốc diễn
nghĩa của La Quán Trung trong quá khứ có tới 20 bản.
Tiểu thuyết chương hồi Tam Quốc diễn nghĩa 120 hồi mà ngày
nay nhiều người trong chúng ta biết đến do La Quán Trung viết ra vào khoảng
những năm 1330 và 1400 (khoảng cuối nhà Nguyên đầu nhà Minh), do cha con nhà
phê bình Mao Tôn Cương đời nhà Minh chỉnh lý, hoàn thành vào khoảng năm 1522.
Tiểu thuyết này được viết bằng thứ chữ Hán dễ đọc và được xem là tác phẩm chuẩn
mực trong suốt 300 năm. La Quán Trung đã sử dụng phần lớn tư liệu lịch sử trong
Biên niên sử Tam Quốc do Trần Thọ biên soạn bao gồm các sự kiện từ thời Loạn
Khăn Vàng vào năm 184 cho tới lúc thống nhất ba nước dưới thời nhà Tấn vào năm
280.
La Quán Trung đã kết hợp những kiến thức lịch sử này cùng
với tài năng kể chuyện hấp dẫn của mình để tạo ra một loạt tính cách nhân vật
tiêu biểu. Một trong những thành công lớn nhất của Tam Quốc diễn nghĩa là tính
chất quy mô, hoành tráng của cốt truyện và nhân vật. Bộ tiểu thuyết này có thể
chia thành rất nhiều “truyện nhỏ” mà đa phần trong số đó có thể hoàn toàn dựng
được thành những bộ phim truyện
theo đúng nghĩa. Do vậy mà phần sau đây chỉ cố gắng tóm tắt hết sức sơ lược
toàn bộ truyện theo những nét chính yếu mà không đi vào chi tiết nhân vật và sự
kiện: Truyện lấy bối cảnh vào thời suy vi của nhà Hán khi mà những hoàng đế
cuối cùng của nhà Hán quá tin dùng giới hoạn quan mà gạt bỏ những bề tôi trung
trực. Triều đình ngày càng bê tha, hư nát, khiến kinh tế suy sụp và an ninh bất
ổn. Đến đời Hán Linh Đế, loạn giặc Khăn Vàng nổ ra do Trương Giác, một người đã
học được nhiều ma thuật và bùa phép chữa bệnh, cầm đầu. Hà Tiến chỉ huy các
quan đại thần chẳng mấy chốc dập tắt được quân nổi loạn. Hà Tiến là anh rể vua
và nhờ đó mà nhậm được chức đại tướng quân của triều đình. Tuy nhiên, Hà Tiến
lại mắc mưu của đám hoạn quan, bị chúng lừa vào cung và giết chết. Liền sau đó
các quan đại thần nổi giận chạy vào cung giết sạch đám hoạn quan này. Trong số
các quan lại cứu vua có Đổng Trác là thứ sử Tây Lương. Đổng Trác nhân cơ hội
này vào cung bảo vệ vua.
Sau đó ông ta phế truất Thiếu Đế và lập Trần Lưu Vương lên
làm hoàng đế, rồi làm tướng quốc nắm hết quyền triều chính vào tay mình. Hành
vi tàn bạo, lộng quyền của Đổng Trác khiến quan lại vô cùng phẫn nộ, họ hội
quân với Viên Thiệu và lập mưu khiến Đổng Trác dời đô từ Lạc Dương về Trường
An. Cuối cùng Đổng Trác bị giết bởi chính người con nuôi của ông ta là Lữ Bố,
một chiến binh dũng mãnh, do cùng giành giật một người con gái đẹp là Điêu
Thuyền. Trong lúc đó, trong các quan lại lục đục nội bộ với nhau, Tôn Kiên, cha
của Tôn Sách và Tôn Quyền, lợi dụng lúc lộn xộn, đã lấy được ngọc tỷ triều
đình. Không còn triều đình trung ương vững mạnh, các quan lại quay về địa
phương của mình và bắt đầu giao chiến với nhau. Nhiều anh hùng như Tào Tháo và
Lưu Bị, mặc dù chưa chính thức được ban tước và quân, cũng bắt đầu xây dựng lực
lượng riêng.
Nhân vật Tào Tháo trong Kinh Kịch. Theo truyền thống, khuôn
mặt ông ta được tô trắng để tượng trưng cho tính cách gian hùng. Quyền lực của
Tào Tháo ngày một mạnh lên sau một loạt những sự kiện sau đó. Trong chiến dịch
quân sự đánh Viên Thiệu, chiến thắng quyết định của Tào Tháo là tại trận Quan
Độ. Thất bại của Viên Thiệu đã đặt cơ sở cho Tào Tháo củng cố quyền lực tuyệt
đối khắp miền bắc Trung Quốc. Cũng trong thời gian này, Lưu Bị đã lập được căn
cứ ở Nhữ Nam và tự đem quân đi tấn công Tào Tháo nhưng bị thất bại. Lưu Bị bèn
tới Kinh Châu nhờ Lưu Biểu là một người anh họ xa của Lưu Bị cho lánh nạn. Tại
đó Lưu Bị, sau ba lần đến thăm lều cỏ của Gia Cát Lượng, đã chiêu mộ được ông
ta làm mưu sĩ. Hai lần đầu tiên, Gia Cát lấy cớ đi có việc để từ chối gặp
khách. Chỉ có lần cuối cùng vì cảm kích bởi sự chân thành và kiên trì của Lưu
Bị mà Gia Cát Lượng mới quyết định theo phò tá. Chẳng may Lưu Biểu mất, để lại
Kinh Châu cho hai con trai nhỏ. Sau khi trừ được Viên Thiệu, Tào Tháo lập tức
nhòm ngó về phía nam. Ông ta tự đem quân đi chiếm Tân Dã. Lưu Bị được lòng dân
chúng thành Tân Dã nên trước viễn cảnh bị xâm chiếm, toàn bộ dân trong thành
một lòng xin đi theo Lưu Bị. Lưu Bị đành đưa dân Tân Dã về thành Tương Dương
của người con thứ của Lưu Biểu, tại đây Lưu Bị bị từ chối không cho vào thành.
Không còn cách nào khác ông phải tiếp tục nam tiến xuống Giang Hạ (江夏), là thành của Lưu Kỳ người
con trưởng của Lưu Biểu.
Ở Giang Hạ, Lưu Bị cuối cùng cũng tạm có được một chỗ đặt
chân để chống lại cuộc tấn công dữ dội của Tào Tháo. Còn ở phía tây nam, Tôn
Quyền vừa mới lên nắm quyền sau cái chết của người anh là Tôn Sách. Cả Tào Tháo
lẫn Lưu Bị đều định liên kết với Tôn Quyền. Tuy nhiên, Gia Cát Lượng tự mình
đến quận Sài Tang (柴桑) và thuyết
được Tôn Quyền hợp tác với Lưu Bị. Liên minh này đã dẫn đến thất bại thảm hại
nhất của Tào Tháo tại trận Xích Bích. Với ý định loại trừ Lưu Bị, người mà Tôn
Quyền cho là một mối đe dọa tiềm tàng, ông ta bày mưu gả em gái cho Lưu Bị. Sau
đó, Lưu Bị mắc mưu sang Sài Tang để làm lễ cưới. Tuy nhiên, Tôn Quyền rất nghe
lời mẹ Ngô Quốc Thái Phu Nhân; bà này rất quý Lưu Bị và không cho ai hãm hại
Lưu Bị. Cũng do mưu lược của Gia Cát Lượng mà Lưu Bị cuối cùng đã thoát được
quay về Giang Hạ cùng với người vợ mới. Tình trạng giằng co giữa ba thế lực vẫn
bế tắc cho đến khi Tào Tháo chết vào năm 219 (có lẽ do u não). Năm sau đó, con
thứ của Tào Tháo là Tào Phi ép phế Hiến Đế và lập ra nhà Ngụy. Đáp lại, Lưu Bị
tự xưng đế Thục Hán (để chứng tỏ vẫn mang dòng máu quý tộc nhà Hán nhưng đặt đô
tại Thành Đô Thục). Lúc này, Tôn Quyền lại ngả về phía Ngụy. Ông ta chịu để Tào
Phi phong vương nước Ngô. Tôn Quyền làm việc này nhằm tập trung lực lượng chống
Lưu Bị, người đã từng khởi binh đánh Ngô để trả thù cho Quan Vũ bị Tôn Quyền
giết chết. Một loạt những sai lầm mang tính chiến lược do hành động nóng vội
của Lưu Bị đã dẫn đến thất bại của quân Thục. Tuy nhiên, Lục Tốn (陆逊), quân sư phía Ngô đã từng chĩa mũi nhọn tấn công
về phía Thục, đã ngưng không tiếp tục dấn sâu về phía tây. Vì tin vào đòn trừng
phạt của Lục Tốn, Tào Phi phát động một cuộc xâm lược vào nước Ngô vì cho rằng
như vậy quân Ngô vẫn còn ở ngoài nước. Cuộc tấn công đã bị đè bẹp bởi sự kháng
cự quyết liệt của quân Ngô cùng với bệnh dịch bùng phát phía bên quân Ngụy.
Trong lúc đó tại nước Thục, Lưu Bị bị bệnh chết và để lại
con trai Lưu Thiện còn nhỏ dại, phó thác cho Gia Cát Lượng chăm sóc. Nắm bắt cơ
hội này, Tào Phi gắng mua chuộc một số lực lượng, trong đó có Tôn Quyền và các
bộ tộc thiểu số để tấn công nước Thục. Một sứ giả của Thục thuyết được Tôn
Quyền lui quân, nhưng Gia Cát Lượng vẫn phải lo xử lý quân của các bộ tộc thiểu
số. Một trong những mưu lược tài ba cuối cùng của Gia Cát Lượng là tiến hành
chiến dịch thu phục Mạnh Hoạch, thủ lĩnh bộ tộc người Man (蛮族). Gia Cát Lượng đã bảy lần
bắt sống Mạnh Hoạch, lần nào cũng cho thả ra nguyên vẹn. Mạnh Hoạch vì cảm động
bởi mưu trí và lòng nhân từ của Gia Cát Lượng nên đã thề mãi mãi gắn bó với nhà
Thục. Trong lúc này, Tào Phi cũng lâm bệnh mà chết. Gia Cát Lượng liền nhìn về
phía bắc. Tuy thế, ông không còn sống được bao lâu nữa.
Chiến thắng đáng kể cuối cùng của ông chống lại quân Ngụy có
lẽ là chiêu hàng được Khương Duy về phía mình. Khương Duy trước đó là một tướng
bên Ngụy, về tài năng có thể nói là một chín một mười nếu so với Gia Cát Lượng.
Khương Duy tiếp tục tiến hành chiến dịch của Gia Cát Lượng chống lại nhà Ngụy
tới một kết cục khá cay đắng, ngay cả sau khi Lưu Thiện đầu hàng. Khương Duy
bày mưu kích động xung đột giữa hai tướng lớn phía Ngụy.
Kế sách này đã tiến rất sát đến thành công. Thật không may,
bệnh tim bộc phát ngay giữa trận đánh cuối cùng. Ông liền dùng kiếm tự vận,
đánh dấu kháng cự cuối cùng của nhà Thục. Cuộc chiến kéo dài nhiều năm giữa
Ngụy và Thục thì phía Ngụy liên tục đổi ngôi. Nhà họ Tào ngày một yếu thế. Cuối
cùng, vào thời Tào Hoán, cháu đại thần Tư Mã Ý là Tư Mã Viêm bắt Tào Hoán
nhường ngôi giống như Tào Phi đã từng ép Hiến Đế, tức là Tấn Vũ Đế. Tấn Vũ Đế
sau đó lập ra nhà Tấn vào năm 265. Vua cuối cùng của Ngô là Tôn Hạo (孙皓) đến năm 280 bị Tấn Vũ Đế chinh phục. Cả ba vua
cuối cùng của ba nước là Tào Hoán, Lưu Thiện và Tôn Hạo, được sống cho đến tận
cuối đời. Và thế là thời đại Tam Quốc cuối cùng cũng chấm dứt sau gần một thế
kỷ đầy xung đột.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét